Sự phát triển của thời kỳ mời[1] Âm_nhạc_cổ_điển_thế_kỷ_20

Một số điểm nhấn

Igor Stravinsky đã gây sốc cho người nghe, nhưng cũng không thiếu phần thích thú. Âm nhạc của ông mang tính chất máy móc, và có âm hưởng của âm nhạc dân gian Nga. Phong cách hòa âm của ông cũng mới mẻ, cụ thể ông đặt hợp âm này lên hợp âm khác. Chính vì thế, âm thanh tươi mới nhưng chưa bao giờ xa lánh người nghe. Với những đóng góp của mình, ông được Tạp chí Times bình chọn là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất thế kỷ 20.

Âm nhạc dân gian có lẽ là một món ăn thú vị đối với các nhà soạn nhạc thế kỷ 20. Ralph Vaughan Williams đã trộn nét của âm nhạc dân gian, âm nhạc nhà thờ và tàn dư của thời kỳ âm nhạc Lãng mạn. Còn Béla Bartók đã viết nhạc trên tiết tấu nhanh của âm nhạc quê hương. Cả hai người đều thích sưu tầm âm nhạc dân gian. Trong khi đó, Olivier Messiaen lại thích đi sưu tập âm thanh thiên nhiên như tiếng chim hót và sử dụng chúng trong những tác phẩm của mình.

Tác động của chính trị

Đức quốc xãLiên Xô

Nhiều nhà soạn nhạc và nghệ sĩ đã bị chuyển đến các trại tập trung của Đức quốc xã vì các lý do niềm tin, tôn giáo hoặc chủng tộc.

Còn tình hình ở Liên Xô thì cũng chả khá hơn, đặc biệt là thời kỳ của Joseph Stalin. Sergei Prokofiev, Aram KhachaturianDmitri Shostakovich đã bị giới hạn trong những gì họ có thể làm. Trường hợp của Shostakovich là nổi bật nhất. Chế độ của Xô viết cho rằng các tác phẩm của ông quá hiện đại hoặc etilist. Chính vì sức ép của chính quyền, ông chỉ có hai lựa chọn: giao hưởng và nhạc phim, những thứ dễ làm hài lòng các quan chức của chính quyền. Trong khi chính những tác phẩm có quy mô nhỏ hơn, tứ tấu đàn dây chẳng hạn, mới phản ánh thực sự những gì mà nhà soạn nhạc này muốn nói.

Hoa Kỳ - quốc gia của sự lánh nạn

Chiến tranh và đời sống chính trị ngột ngạt ở châu Âu đã khiến nhiều nhà soạn nhac không muốn ở lại. Rachmaninov, Schoenberg, Bartók hay Stravinsky là những trường hợp tiêu biểu. Đây là một cơ hội phát triển cho nền âm nhạc cổ điển non trẻ của Mỹ. Ở đó, không chỉ có những tài năng xuất chúng từ châu Âu mà còn có sự pha trộn phong cách giữa châu Âu, châu Mỹ và có thể là cả châu Phi. Những nhà soạn nhạc như George Gershwin hay Aaron Copland bắt đầu nổi lên với phong cách kiểu đó cộng với thẩm mỹ của riêng bản thân. Họ sử dụng nhạc jazz như một chất liệu sáng tác cho mình. Gersshwin và Duke Ellington bắt đầu sáng tác một cách "nghiêm túc" để biểu diễn trong phòng hòa nhạc, không còn mang tính chất ngẫu hứng nhiều như jazz. Jazz cũng ảnh hưởng nhiều đến cả những nhà soạn nhạc châu Âu nhiều kinh nghiệm như Stravinsky hay Maurice Ravel.

Tác động của những thảm họa

Holocaust, bom nguyên tử tại HiroshimaThế chiến II đã thúc đẩy các nhà soạn nhạc sau 1945 rằng họ cần đặt quá khứ ra sau và tìm những phương pháp tiên tiến hơn. Pierre Boulez, với Structures được sáng tác vào năm 1951 có cả giai điệu, nhịp điêu, thậm chí là êm ả-inh ỏi theo điều khiển của toán học. John Cage thì độc đáo ở chỗ yêu cầu khán giả về vẻ đẹp của âm nhạc tự nhiên với tác phẩm 4 phút 33 giây, âm thanh ở đây chỉ là sự im lặng hoặc là âm thanh nào đó bao quanh một phòng hòa nhạc.